PTO- Trong những năm qua việc phát triển nghề, làng nghề nông thôn luôn được các cấp, các ngành trong tỉnh quan tâm khuyến khích. Tuy nhiên thực tế việc mở rộng phát triển quy mô mang đúng nghĩa của làng nghề đã và đang nảy sinh nhiều khó khăn, phức tạp.
Khó mở rộng quy mô sản xuất
Làng nghề cây cảnh- dịch vụ An Mỹ (xã Phú Lộc, huyện Phù Ninh) được công nhận cách đây 1 năm, nhưng số hộ làm nghề đến nay cũng chỉ chiếm khoảng 40% tổng số hộ dân trong làng, trong đó số hộ tham gia nghề cây cảnh chiếm 28% số hộ làm nghề, có thu nhập từ làm nghề còn bấp bênh nên nhiều hộ vẫn coi đây là nghề phụ.
 |
Do tiêu thụ sản phẩm khó khăn, thu nhập giảm sút, nên nhiều hộ làm nghề trồng cây cảnh ở làng nghề cây cảnh - dịch vụ An Mỹ, xã Phú Lộc (Phù Ninh) không dám đầu tư mở rộng quy mô sản suất. - Anh Lê Xuân Hiền - một thành viên của làng chăm sóc cây cảnh. |
Từ chỗ chỉ vài hộ trồng cây cảnh để chơi, đến đầu năm 2013 làng An Mỹ đã có gần 30 hộ trồng và kinh doanh cây cảnh. Tuy nhiên, ở thời điểm này nghề trồng cây cảnh ở An Mỹ có dấu hiệu chững lại, quy mô sản xuất kinh doanh cây cảnh của các hộ không mở rộng, thậm chí có hộ còn thu hẹp do khó khăn về thị trường tiêu thụ, số hộ tham gia mới rất ít. Anh Lê Xuân Hiền- một thành viên trong làng phản ánh: “Từ nhiều tháng nay việc tiêu thụ sản phẩm rất khó khăn, cây cảnh sau một thời gian có giá cao đã bị rớt giá mạnh. Trong khi lượng cây tồn đọng nhiều thì lượng khách đến xem và bỏ tiền túi ra mua không nhiều, kéo theo thu nhập của hầu hết các hộ làm nghề bị giảm sút nên khả năng mở rộng phát triển nghề là khó”.
Không chỉ làng nghề cây cảnh- dịch vụ An Mỹ gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm cũng như mở rộng phát triển sản xuất, mà hàng loạt các làng nghề khác như: Làng nghề đan lát Tùng Khê, Ngô Xá (Cẩm Khê); làng nghề nuôi và chế biến rắn Tứ Xã (Lâm Thao), Khuôn Dậu (Phù Ninh), làng nghề dệt thổ cẩm Chiềng (Tân Sơn)... cũng chung tình cảnh như vậy. Qua thực tế khảo sát ở một số làng nghề, chúng tôi cũng nhận thấy hầu hết các hộ làm nghề đều sản xuất ở quy mô nhỏ lẻ và gặp nhiều khó khăn về vốn đầu tư cho sản xuất, về thị trường tiêu thụ sản phẩm, bản thân sản phẩm của làng nghề cũng yếu sức cạnh tranh, đầu ra hoàn toàn phụ thuộc vào thương lái, dễ bị ép cấp, ép giá, khiến cho lợi nhuận/1 sản phẩm đạt thấp, thu nhập của người làm nghề không cao.
Hiện trạng các làng nghề
Theo số liệu thống kê của Chi cục phát triển nông thôn. Toàn tỉnh hiện có 52 làng nghề ở 6 nhóm ngành nghề, trong đó nhóm làng nghề chế biến và bảo quản nông sản có tới 25 làng; nhóm làng nghề đan lát mây tre có 10 làng; nhóm làng nghề mộc có 6 làng; nhóm làng nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, dệt: 4 làng; nhóm làng nghề xây dựng: 2 làng; nhóm làng nghề gây trồng và kinh doanh sinh vật cảnh: 5 làng. Với hơn 27.000 hộ tham gia lĩnh vực ngành nghề nông thôn, trong đó có 12.995 hộ làm nghề, tạo việc làm cho 46.571 lao động. Nhiều làng nghề tỷ lệ lao động ngành nghề chiếm tới 80-90% lực lượng lao động địa phương như các làng nghề làm nón, mây tre đan. Qua đánh giá từng nhóm làng nghề cho thấy mỗi nhóm có những điểm mạnh, điểm yếu khác nhau. Nếu như nhóm nghề mộc phát triển tương đối ổn định, sản phẩm chủ yếu là đồ mộc gia dụng, thu hút tạo việc làm cho 2.014 lao động, doanh thu đạt hơn 40.752 triệu đồng/năm, thì thời gian gần đây lại gặp khó khăn về nguyên liệu đầu vào, sản phẩm chưa đa dạng, độ tinh xảo chưa cao nên khó khăn trong việc cạnh tranh với các sản phẩm của các làng nghề mộc nổi tiếng trong nước, thị trường chỉ bó hẹp trong tỉnh và một số vùng lân cận.
 |
Nghề phụ đan nón đã tạo việc làm ổn định cho các gia đình ở xã Sai Nga (Cẩm Khê) với mức thu nhập cao. Ảnh: Tô Tiến Đạt |
Đối với nhóm nghề đan lát và sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ tuy có ưu điểm lớn là thu hút được nhiều lao động lúc nông nhàn, phù hợp với mọi lứa tuổi kể cả người già và học sinh, không mất nhiều vốn đầu tư... song thu nhập bình quân của người lao động thấp, chỉ đạt từ 0,7 triệu đến 2 triệu đồng/tháng. Sản xuất mang tính chất thủ công, thô sơ, chất lượng sản phẩm chậm được cải tiến, chủ yếu là sản phẩm thô, thị trường khó mở rộng do bị cạnh tranh mạnh. Ở nhóm nghề chế biến và bảo quản nông sản, sản phẩm chính là búp chè khô (chè đen, chè xanh) và các loại sản phẩm được chế biến từ nông sản như bún, bánh, rau, quả... Số hộ và số lao động tham gia trong các làng nghề tương đối ổn định. Tuy nhiên sản phẩm chưa hình thành được thương hiệu, thiết bị công nghệ chế biến thô sơ nên giá trị sản phẩm không cao, thị trường tiêu thụ chủ yếu nội địa, chất lượng sản phẩm ở cấp thấp và trung bình. Công nghệ chế biến lạc hậu kéo theo hệ lụy xử lý ô nhiễm môi trường hầu như chưa được quan tâm đầu tư, điển hình là thực trạng ô nhiễm môi trường nước tại các làng nghề bún, bánh đã xảy ra, bên cạnh đó vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm cũng chưa được đề cao.
Nhóm làng nghề gây trồng và kinh doanh sinh vật cảnh là nhóm làng nghề mới trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, trong năm qua số lượng cây cảnh bán ra ngoài thị trường giảm sút mạnh so với các năm trước, giá thành không cao, thị trường cây cảnh không còn sôi động. Còn ở nhóm làng nghề xây dựng với sản phẩm chính là gạch xây và xây dựng nhà... cũng bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế, đã có sự giảm nhẹ về số lao động tham gia.
Đâu là giải pháp
Trao đổi với chúng tôi, ông Nguyễn Phúc Lanh- Trưởng phòng Ngành nghề- Chi cục Phát triển nông thôn khẳng định: “Mặc dù hoạt động làng nghề trên địa bàn tỉnh thời gian qua phát triển mạnh về số lượng nhưng chất lượng thực chất của các làng nghề đã được công nhận còn hạn chế; làng nghề, ngành nghề phát triển chưa bền vững; việc xây dựng làng nghề mới rất khó khăn. Nguyên nhân do nội lực của các làng nghề còn yếu, số hộ làm nghề nhỏ lẻ, rải rác không tập trung, nhiều làng nghề không phải chỉ có một nghề mà còn có nhiều nghề khác nếu không xem xét ở nhiều góc độ, trong đó có góc độ xã hội giải quyết việc làm cho lao động nông thôn thì cũng khó có thể công nhận làng nghề”. Thực tế hiện nay ở các làng nghề hầu như chưa xuất hiện hay nói đúng hơn là chưa có đội ngũ ông chủ năng động, dám nghĩ, dám làm, dám đầu tư để phát triển nghề, mở rộng quy mô sản xuất, nhiều làng nghề chưa quan tâm đến việc xây dựng thương hiệu, quảng bá thương hiệu sản phẩm của làng nghề. Một nguyên nhân nữa là cơ chế chính sách phát triển làng nghề thời gian qua còn quá chung chung, chưa cụ thể, chưa có chính sách đặc thù riêng cho làng nghề.
Từ thực tế trên cho thấy, để làng nghề phát triển ổn định, bền vững trong cơ chế thị trường, cần có những cơ chế chính sách ưu tiên, hỗ trợ cụ thể, rõ ràng hơn đối với các làng nghề và làng có nghề trong toàn tỉnh. Trong đó nên ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng các làng nghề, tăng cường công tác hỗ trợ đào tạo nghề, hỗ trợ vốn vay phát triển sản xuất, quảng bá sản phẩm ở những ngành hàng có lợi thế, có tiềm năng về thị trường tiêu thụ. Làm tốt công tác tuyên truyền khuyến khích các hộ nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tạo dựng uy tín, thương hiệu sản phẩm tiến tới thương hiệu làng nghề... Làng nghề phát triển, mức sống, mức thu nhập của nhân dân sẽ không ngừng được nâng lên, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội.
Mai Phương